kiếp nạn cuối cùng của thầy trò đường tăng

Cuối cùng, cuối năm 1615, lâu đài Ōsaka thất thủ và gần như tất cả những người thủ thành đều bị giết, bao gồm của Hideyori, Yodo-dono, và cả con trai của Hideyori. Vợ của Hideyori, Senhime vốn là cháu gái của Ieyasu, được trở về sống với nhà Tokugawa. Trong vụ tai nạn cuối cùng, một cụ ông 72 tuổi bị ngã từ độ cao 5m xuống đất khi đang tỉa cây tại khu vực Glen Waverley. Lực lượng cấp cứu cho biết nạn nhân được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện The Alfred Hopsital trong tình trạng bị thương nặng. Mai Thảo kể tiếp : - "Bỗng từ cuối phòng họp,Võ Phiến ho lên một tiếng, uống một ly chanh đường cho dịu cổ rồi nói một hơi: Năm 1963 là một năm ghi dấu những bước tiến, những thành công của văn chương nữ giới. Những nhà văn nữ của chúng ta giờ này đang làm Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa". Người cũng nói: "Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một đức thì không thành người". Vì vậy, con người mà chúng ta xây dựng là con người chính trị Cuối cùng viên ngoại trở về Dương gian, án oan được giải, đồng thời chứng thực Thiên Lý "thiện ác hữu báo", bốn thầy trò tiếp tục lên đường. Cổ nhân giảng rằng: Con người chính là anh linh của vạn vật, sinh mệnh là quý giá, sinh mệnh thật ra là bất diệt, nên mengambil satu kartu queen atau satu kartu ace hitam. Nhắc đến Đường Tăng, rất nhiều người liên tưởng đến vị Thánh tăng trong “Tây Du Ký” – bộ tiểu thuyết trường thiên viết theo thể chương hồi do Ngô Thừa Ân sáng tác vào thời nhà Minh. Trong truyện kể rằng, Đường Tăng là đệ tử thứ hai của Phật Tổ, là La Hán Kim Thiền Tử chuyển sinh tại thế gian. Đường Tăng là một nhân vật có thật trong lịch sử, nhưng Kim Thiền Tử lại là tên gọi hư cấu, hơn nữa trong các đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng không có ai mang danh này. Vậy vì sao trong truyện lại viết rằng kiếp trước của Đường Tăng là Kim Thiền Tử? Nguyên mẫu của Đường Tăng là Pháp sư Huyền Trang thời nhà Đường. Mặc dù Ngô Thừa Ân lấy cảm hứng từ hành trình thỉnh kinh có thật trong lịch sử, nhưng những miêu tả về Đường Tăng trong tiểu thuyết lại là sáng tác riêng của tác giả. Vì vậy, hậu nhân không nên lầm tưởng “Tây Du Ký” là tác phẩm lịch sử, phản ánh chân thật về sự thực lịch sử. Dưới đây là đôi lời thảo luận Vì sao Đường Tăng trong tiểu thuyết lại được gọi là Kim Thiền Tử? Trong “Tây Du Ký”, không ít lần Ngô Thừa Ân kể rằng Đường Tam Tạng là do La Hán Kim Thiền Tử chuyển sinh. Ví dụ như trong hồi thứ 12, khi sang Đông Thổ tìm người đi lấy kinh, Bồ Tát đã nói với đệ tử Mộc Soa “Hôm nay là ngày hội chính của “Đại hội Thủy lục”, lấy một số 7 nối tiếp bảy số 7, đúng đấy. Ta và con hãy đi lẫn vào trong đám dân chúng đến dự lễ, một là xem hội ấy như thế nào, hai là xem Kim Thiền Tử có phúc đáng được mặc bảo bối của ta không, ba là xem họ giảng kinh gì”. Hồi thứ 24 kể về cố sự nhân sâm quả. Lúc ấy, bốn thầy trò đi qua núi Vạn Thọ, nơi có Ngũ Trang quán của Trấn Nguyên Đại Tiên. Trấn Nguyên Tử biết rằng thầy trò Đường Tăng sẽ vào trong quán xin nghỉ nhờ, nhưng ngặt nỗi lại nhận được tờ thiếp của Nguyên Thủy Thiên Tôn, mời đến cung Di La trên Thượng Thanh Thiên để giảng về “Hỗn nguyên đạo quả”. Trấn Nguyên Tử dẫn theo 46 vị đệ tử, chỉ để lại hai đệ tử là Thanh Phong và Minh Nguyệt ở nhà. Trấn Nguyên Đại Tiên căn dặn hai đồ đệ rằng “Sắp tới, có một cố nhân của ta đi qua đây, hai con phải tiếp đón nồng hậu, mang hai quả nhân sâm ra mời ngài ăn, để tỏ chút tình cố cựu”. “Sắp tới, có một cố nhân của ta đi qua đây, hai con phải tiếp đón nồng hậu, mang hai quả nhân sâm ra mời ngài xơi, để tỏ chút tình cố cựu.” Ảnh NTDTV Thanh Phong và Minh Nguyệt nghe nói cố nhân của sư phụ là hòa thượng đến Tây Thiên cầu kinh, bèn hỏi lại “Khổng Tử có nói “Đạo bất đồng, bất tương vi mưu” Đạo khác nhau, không quan hệ với nhau. Chúng ta thuộc Thái Ất Huyền Môn, sao sư phụ lại quen biết vị hòa thượng đó?”. Trấn Nguyên Tử trả lời “Các con không biết đó thôi, vị hòa thượng đó vốn là Kim Thiền Tử thác sinh, đồ đệ thứ hai của Tây phương Thánh lão là đức Phật Như Lai. 500 năm trước, ta với ngài ấy có quen biết nhau ở “Hội Lan Bồn”. Ngài đã từng tự tay mời trà ta, kính trọng ta, từ đấy ta coi như bạn cũ”. Đến hồi thứ 27, bốn thầy trò tạm biệt Trấn Nguyên Đại Tiên và rời khỏi Ngũ Trang quán, tiếp tục hành trình sang phương Tây. Chẳng mấy chốc, trước mặt hiện ra một ngọn núi cao. Trong truyện viết “Lại nói chuyện người ta thường có câu Non cao lắm quái, núi hiểm nhiều ma’, đúng như vậy. Núi này có một con yêu tinh. Khi Hành Giả ra đi, làm kinh động con yêu quái. Trên tầng mây, đạp luồng gió âm, hắn nhìn thấy Đường Tăng đang ngồi dưới đất, xiết bao mừng rỡ nói May quá! May quá! Mấy năm nay mọi người thường nói về lão hòa thượng nhà Đường bên phương Đông đi lấy kinh “Đại Thừa”. Lão vốn là Kim Thiền Tử hóa thân, tu hành mười đời, ăn được một miếng thịt của lão sẽ sống lâu mãi mãi. Hôm nay lão đến đây rồi!’”. Sau khi đã vượt qua trùng trùng ma nạn, cuối cùng thầy trò Đường Tăng cũng đến Tây Thiên đất Phật. Như Lai nói với Tam Tạng rằng “Này Thánh tăng, kiếp trước nhà ngươi là đồ đệ thứ hai của ta, tên gọi Kim Thiền Tử. Chính vì nhà ngươi không chịu nghe thuyết Pháp, coi thường đạo giáo của ta, nên ta đày linh hồn nhà ngươi xuống cõi phương Đông. Nay mừng nhà ngươi đã quy y, giữ đạo Sa Môn, tuân theo giáo lý của ta, đi thỉnh chân kinh có nhiều công quả, vậy ta gia phong cho chính quả chức to là Chiên Đàn Công Đức Phật”. Câu nói trên đã nói rõ Đường Tăng vốn là Kim Thiền Tử, là đệ tử thứ hai của Đức Phật Thích Ca, vì khinh mạn Phật Pháp mà bị giáng xuống trần thế, phải trải qua quá trình tu luyện nơi nhân thế mới có thể chứng đắc Phật quả. Nhưng trong lịch sử, đệ tử thứ hai của Đức Phật Thích Ca lại là Mục Kiền Liên, hơn nữa trong số các đệ tử còn lại cũng không có ai tên là Kim Thiền Tử. Vậy Kim Thiền Tử là ai, và vì sao lại gọi Đường Tăng là Kim Thiền Tử? Vì sao Đường Tăng là Kim Thiền Tử? Nhìn nhận từ chữ Hán, Kim Thiền Tử là “金蟬子”. Chữ “Thiền” 蟬 nghĩa là con ve sầu, đồng âm với chữ “Thiền” 禪 trong thiền định, tọa thiền. Chữ “Kim” 金 trong ngũ hành thuộc về Tây. Do đó, “Kim Thiền” rất có thể ngụ ý Thiền tông truyền dạy từ phương Tây. “Kim” cũng là Kim Cang, giống như kim cương trong kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, cho thấy xuất thân cao quý, có thể phá hết thảy chướng ngại và phiền não. Còn chữ “Tử” 子 là tôn xưng của các bậc Thánh nhân có thành tựu nổi bật, như Khổng Tử, Lão Tử, Quảng Thành Tử, Thiền Tử là “金蟬子”. Chữ “Thiền” 蟬 nghĩa là con ve sầu, đồng âm với chữ “Thiền” 禪 trong thiền định, tọa thiền. Chữ “Kim” 金 trong ngũ hành thuộc về Tây. Ảnh ntdtv Từ đó có thể thấy, tên gọi “Kim Thiền Tử” đã tiết lộ Đường Tăng là hóa thân và truyền nhân của Thiền môn. Thiền tông bắt đầu từ sơ tổ Đạt Ma truyền nhập vào Trung Quốc từ thời Nam Bắc triều. Năm xưa trong Pháp hội Linh Sơn, Đức Phật Thích Ca cầm hoa, đệ tử Ca Diếp vừa nhìn thấy liền mỉm cười, tiếp thụ tâm pháp của Thiền. Từ đó trải qua lịch sử hai mươi mấy đời nối tiếp nhau truyền lại, sau đó được Tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền nhập vào Trung Thổ, sáng lập Thiền tông tại Tung Sơn. Cuối cùng đến thời Lục tổ Huệ Năng thì Thiền tông phát triển rực rỡ, trở thành tông phái Phật giáo lớn nhất tại Trung Quốc. Nhìn nhận từ một góc độ khác, hai chữ “Kim Thiền” 金蟬 nghĩa là con ve sầu, tên gọi Kim Thiền Tử là mượn ý trong câu “Kim thiền thoát xác” ve sầu lột xác. Hành trình sang Tây Thiên thỉnh kinh của Đường Tăng cũng giống như quá trình tu tâm của một người tu luyện. Là người tu luyện thì cần phải tẩy tịnh thân tâm, đề cao tầng thứ, khi đạt đến cảnh giới viên mãn đắc Đạo thì cũng là lúc trút khỏi xác phàm, đắc được Phật thân. Đó chính là ý nghĩa của cái tên “Kim Thiền Tử”, cũng là chính là đích đến của hành trình sang Tây Thiên của Đường Tăng. Đánh giá nhân vật Trong lịch sử, Pháp sư Huyền Trang đã phải trải qua vô vàn khổ nạn mới đến được đất Phật, thỉnh được Tam Tạng chân kinh. Sau khi thỉnh kinh, ông lại dành nhiều năm dày công nghiên cứu và phiên dịch, mở ra bước ngoặt mới cho quá trình Hán hóa các kinh điển Phật giáo, giúp Phật giáo trở thành quốc giáo của Trung Quốc sau này. Pháp sư Huyền Trang có công lao vô cùng to lớn giúp Phật giáo phát triển rực rỡ và hồng truyền ở phương Đông. Huyền thoại về ông không chỉ được dân gian truyền tụng, mà ngay cả Hoàng đế Đường Thái Tông cũng đích thân viết bài văn “Đại Đường Tam Tạng thánh giáo tự” để ngợi ca ông. Trong bài văn này, Đường Thái Tông ca ngợi Huyền Trang là “Tùng phong thủy nguyệt, vị túc bỉ kỳ thanh hoa; Tiên lộ minh châu, cự năng phương kỳ lãng nhuận” Gió tùng trăng nước, chưa đủ ví thanh hoa; Tiên lộ minh châu, khó so bằng tư chất. Trong bài có đoạn “Nay pháp sư Huyền Trang là lãnh tụ thiền môn. Nhỏ đà linh mẫn, tâm tam không sớm tỉnh ngộ từ xưa; lớn lại thần tình, tánh tứ nhẫn trước bao hàm đủ cả. … Vậy nên, lòng trông Tịnh độ, thân đến cõi Tây, mạo hiểm nghìn trùng, xông pha chiếc bóng. Ban mai tuyết phủ, đất mất đuờng đi; chiều xế, cát bay, trời mờ lối tới. Muôn dặm non sông, vén mây mù mà tiến bước; trăm tầng nắng rét, đạp sương tuyết để lên đuờng. Nặng lòng thành coi nhẹ gian lao, mạnh chí quyết sở cầu nguyện đạt. Chu du Tây vực muời lẻ bảy năm, trải khắp đạo trường tham cầu chánh giáo. Song lâm với bát thủy, suy nếm mùi thiền; Lộc Uyển và Thứu Phong, thánh cảnh qua hết. Vâng chí ngôn của đấng thiên thánh, lĩnh chân giáo với bậc thượng hiền. Tìm thấu diệu môn, tin cùng áo nghĩa. Đạo nhất thừa cùng năm luật bộ, đầy khắp tâm điền; văn bát tạng với ba hòm kinh, dập dồn khẩu hải”. Một ngày, Đường Cao Tông nhận được tin Pháp sư Huyền Trang bệnh nặng, hoàng đế lập tức phái các danh y tài giỏi nhất trong cung đến chữa trị. Sau khi Huyền Trang viên tịch, Cao Tông vô cùng tiếc thương, đã nhiều lần than thở rằng “Trẫm đã mất đi quốc bảo rồi…” Minh HạnhTheo Ngung Tâm – Secretchina Link bài dịch Epoch Times Tiếng Việt Năm xưa Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh, trên đường đi thu nạp 4 đồ đệ Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Ngộ Tĩnh và ngựa Bạch Long Mã. Tại sao lại là 4 chứ không phải là một con số khác? Mở đầu Tây Du Ký, tác giả Ngô Thừa Ân viết "Dục trị tạo hóa hội nguyên công, tu khán Tây Du thích ách truyện", nghĩa là muốn biết công của tạo hóa ra sao, muốn hiểu được ý nghĩa của đời người thế nào, vậy cần phải hiểu Tây Du Ký. Năm xưa Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh kinh, trên đường đi thu nạp 4 đại đồ đệ Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Ngộ Tĩnh và Bạch Long Mã. Sau 81 kiếp nạn sinh tử, thầy trò Đường Tăng thăng giá Linh Sơn bái kiến Phật Tổ Như Lai. Sau này, Đường Tăng và Tôn Ngộ Không đắc đạo thành Phật, Bạch Long Mã giữ chức Bát Bộ Thiên Long, Sa Ngộ Tĩnh và Trư Bát Giới giữ chức vị La Hán và Sứ giả. Hoá ra, thực chất 5 sinh mệnh ấy chỉ là một người hay còn được gọi là Ngũ vị nhất thể. Mỗi nhân vật từ Đường Tam Tạng đến con ngựa Bạch Long đều biểu trưng cho một đặc tính thường thấy của thân và tâm trong mỗi người chúng ta trên hành trình hoàn thiện bản thân. Đường Tăng – tình cảm, thể xác của con người Theo diễn biến trong Tây Du Ký, Đường Tăng quả thật có thân thế bất phàm. Kiếp trước của Đường Tăng nguyên là Kim Thiền Tử - đồ đệ thứ hai của Phật Tổ Như Lai. Bởi người này không nghe giảng Pháp, khinh mạn lời giảng Đạo, cho nên đã bị Đức Như Lai đày đọa chuyển sinh nơi Đông Thổ. Cho dù có là học trò, đệ tử của Phật Tổ thì khi phạm Phật quy, phạm tội tày đình vẫn phải chịu phạt như người thường. Kim Thiền Tử bị đọa sang Đông Thổ Đại Đường liền bắt đầu trải qua kiếp nạn. Cậu bé vừa mới sinh ra đời thì cha đã bị giết, mới vừa đầy tháng mẹ đã phải thả cậu lên bè trôi sông, suýt chút nữa thì bị chết đuối. Lớn lên đi tìm họ hàng chẳng hề dễ dàng, về sau trên con đường tu luyện tìm chân kinh phải trải qua muôn ngàn sóng gió, hết tai này đến nạn kia. Mỗi khi gặp khó nạn chỉ cần trong tâm thoáng có niệm không chính, tâm cầu phật có một chút "lung lay" thôi thì mọi công sức đều đổ bể, hơn nữa lại còn có thể bị nguy hiểm đến tính mạng. Trên đường đi, Kim Thiền Tử - Đường Tăng thu nạp 3 đệ tử Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Ngộ Tĩnh, Bạch Long Mã. Bốn thầy trò Đường Tăng kiên định tâm cầu Phật pháp, trải qua 81 nạn mới trở về lại được thế giới Phật. Thật ra Tây Du Ký chỉ là câu chuyện mượn lý do thỉnh kinh để giãi bày đạo lý làm người, dùng hư cấu văn chương để răn đe người đời tính thiện nhân và tu dưỡng tâm tính. Ai trong chúng ta cũng đều có thể là một Đường Tăng. Đều là thể xác, có những điểm mạnh và điểm yếu, tuy có lúc kiên định nhưng cũng có lúc u mê nhu nhược. Trong đó, Tôn Ngộ Không là tượng trưng cho cái tâm, Đường Tăng là thân thể, Trư Bát Giới là tình cảm và dục vọng, Sa hòa thượng là bản tính và Bạch Long Mã là ý chí của con người. Tôn Ngộ Không – Tâm của con người Tôn Ngộ Không là con khỉ đá thác sinh do Trời – Đất, được thiên địa hoá dục mà thành, vốn sinh ra đã mang sẵn tinh hoa của đất trời. Bẩm sinh căn cơ tốt phi thường, sớm ngộ lẽ vô thường, tầm sư học Đạo, trở thành một Thái Ất kim tiên. Được Thượng Đế sắc phong làm Tề Thiên Đại Thánh, ngao du khắp chân trời góc biển, hưởng phúc lành cõi thần tiên. Chỉ vì sinh lòng ngông ngạo, Tôn Ngộ Không đã đại náo thiên cung, bị Phật Tổ phạt giam dưới núi Ngũ Hành 500 năm, "đói thì cho ăn viên sắt, khát cho uống nước rỉ đồng". Sau gặp Đường Tăng nguyện ý từ bỏ dục vọng thành tâm đi theo con đường Phật pháp. Người Trung Hoa có câu "Tâm viên ý mã" tâm con khỉ, ý con ngựa, nghĩa là tâm trí con người ta thường xáo động và dễ mất kiểm soát. Vì thế, Tôn Ngộ Không chính là đệ tử của trái tim, đại diện cho chữ Tâm của người tu hành. Trái tim ấy liên tục cử động không yên, tự do tung hoành giữa trời đất đầy những chuyện thiện – ác lẫn lộn. Vì vậy, về sau này Quan Âm Bồ Tát đã phải tặng cho Đường Tăng chiếc vòng kim cô và bài "Khẩn cô nhi chú" để khắc chế cái tâm này với Tôn Ngộ Không. Trong chuyến hành trình đi tìm chân kinh, duy chỉ có Ngộ Không thật sự từ bỏ ma tâm để sống với thiện tâm, một lòng học Đạo, phò tá sư phụ Đường Tăng, trừ gian diệt ác, lấy lại lẽ phải, công bằng đê cuối cùng đạt đến cảnh giới cần có để trở thành một vị Phật. Tu thành chính quả, trên núi Linh Sơn, Đức Như Lai đã tấn phong "Tôn Ngộ Không, nhà ngươi phò Đường Tăng dọc đường trừ ma diệt ác có công, sau trước vẹn tròn, gia phong người chức Đấu chiến thắng Phật". Còn một lẽ nữa, những ai theo dõi kỹ Tây Du Ký đều biết Tôn Ngộ Không chu du khắp bốn biển tìm tiên cầu Đạo, cuối cùng trở thành đệ tử của Bồ Đề Tổ Sư trên núi Linh Đài Phương Thốn, động Tà Nguyệt Tam Tinh. Thực chất Tà Nguyệt Tam Tinh chính là chữ "Tâm". Vậy nên, ngụ ý sâu xa rằng Tôn Ngộ Không là thể hiện cho chữ Tâm của người tu hành. Trong Kinh Lăng Nghiêm còn viết rằng Tâm có 72 tướng, tương ứng với 72 phép biến hóa của Ngộ Không. Cái tâm của người đời rất giỏi biến hóa, chỉ trong chốc lát có thể biến ra các loại tâm thái khác nhau. Luyện tâm có thể khiến lòng người sáng sủa, trí tuệ sáng suốt, vậy nên lò Bát Quái luyện đan của Thái Thượng Lão Quân không thể thiêu chết mà trái lại còn khiến Tôn Ngộ Không luyện thành Hỏa nhãn kim tinh. Bạch Long Mã – ý chí con người Bạch Long Mã gốc tên là Quảng Tấn, con trai của Tây Hải Long Vương, ngày trước là Tam Thái Tử của Tây Hải Long Cung, là một người khôi ngô tuấn tú song vì làm hỏng báu vật mà Ngọc Hoàng Thượng đế ban tặng nên bị đày tội chết. Sau này, Quan Thế Âm Bồ Tát đã cho phò giá Đường Tăng để chuộc lại những lỗi lầm đã gây ra. Khi phò giá Đường Tăng, Tây Hải Long Vương Tam Thái Tử là một con ngựa, rất ít khi cùng các sư huynh tham gia chiến đấu với yêu quái, duy chỉ trong trận Hoàng bào quái là một lần hiếm hoi ông tham gia chiến đấu và báo cho Trư Bát Giới biết Đường Tăng đã bị Hoàng bào quái biến thành hổ. Tây Hải Long Vương Tam Thái Tử do có công lao cõng Đường Huyền Trang, phụ giúp các sư huynh trên đường đến Tây Thiên nên được phong làm Bát Bộ Thiên Long. Bạch Long Mã là đại diện cho ý cuối cùng của Ngũ vị nhất thể - Tâm viên ý mã. Cái Tâm đã là Tôn Ngộ Không thì cái Ý là Bạch Long Mã. Cái Ý ở đây chính là ý chí, sự quyết tâm tiến về phía trước không lùi lại. Cũng bởi con ngựa này luôn tiến về phía trước mới có thể chở được Tam Tạng tới Tây Phương. Bạch Long Mã thường được coi là em út trong đoàn, nhưng tác giả vẫn cho Bạch Long gặp Đường Tăng và Tôn Ngộ Không trước cả Bát Giới và Sa Tăng. Bởi muốn đi tiếp thì cần phải "Tâm Ý hợp nhất", Tôn Ngộ Không chính là người thu phục Bạch Long Mã, tức là tâm ý đã hợp nhất, đồng lòng tiến lên. Cái ý chí tiến lên còn phụ thuộc vào cái tâm, phải "toàn tâm toàn ý" mới có thể chuyên tâm tu hành, tiếp tục tu hành không lùi bước. Trư Bát Giới – dục vọng, sân si của con người Trư Bát Giới lúc đầu giữ chức Thiên Bồng Nguyên Soái ở Thiên đình, là người chỉ huy hơn 8 vạn thủy binh ở Thiên Đình. Cùng với men say của rượu, Bát Giới đã tán tỉnh Hằng Nga, không những thế Thiên Bồng Nguyên Soái còn tới phủ của Hằng Nga để trêu ghẹo nàng. Quá tức giận, Hằng Nga đã tâu với Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng tức giận đày Thiên Bồng Nguyên Soái xuống hạ giới. Trong lúc say, xuống cửa trần đầu thai, Thiên Bồng Nguyên Soái ngã nhầm vào cửa lợn, hóa kiếp thành con lợn ở dương gian. Quan Thế Âm Bồ Tát đặt tên cho Thiên Bồng Nguyên Soái là Trư Ngộ Năng triết tự là Chữ "Trư" nghĩa là lợn, tượng trưng cho dục vọng của người tu luyện; còn chữ "Năng" nghĩa là tài năng, bản lĩnh, và khả năng. Trư Ngộ Năng có nghĩa là "con lợn tái sinh ngộ ra khả năng của mình" để ám chỉ việc Bát Giới luôn tự đánh giá mình quá cao mà quên mất mình mang một hình hài kinh khủng. Trư Bát Giới vốn là hạng phàm phu tục tử, biếng lười trụy lạc, loạn tính dâm tòng. Xuất phát điểm như thế, nên Bát Giới trong quá trình tu luyện cũng phải đối mặt với hết thảy mọi nhân tâm và dục vọng. Trên đường đi lấy kinh, Bát Giới đã gặp rất nhiều phiền toái, vô cùng nguy hiểm chỉ vì tham ăn, tham ngủ. Nếu không có sự ngăn cản, trợ giúp của Tôn Ngộ Không thì Trư Bát Giới sớm đã trở thành "món ngon" trong miệng bầy yêu quái. Cũng chính vì không giữ đạo hạnh, buông thả nhân tâm, nên Bát Giới khó có thể phát huy các thần thông vốn có của mình, lại thường hay thoái lui trong các cuộc trừ yêu diệt quái. Nhưng Trư Bát Giới lại có tính tham công lao, luôn lấy công lao của người khác ghi tạc thành công lao của bản thân. Mỗi khi gặp yêu quái ngăn trở, ngay cả Tôn Ngộ Không cũng không có kế thì Trư Bát Giới luôn áng chừng phần của cải của mình trong đoàn và nhớ kỹ rồi sau đó chạy lấy người. Không chỉ mang hình hài "nửa lợn, nửa người", mà ở Bát Giới còn hội tụ đầy đủ nhân tâm và những thứ dục vọng của người thường, như lười biếng, tham ăn, háo sắc, lại hay ghen tị và thích đặt điều nói xấu huynh trưởng đồng môn. Trên đường đi lấy kinh, núi cao, nước sâu lại có vô vàn khổ nạn giữa đường. Mỗi khi gặp khó khăn, khổ nạn, Trư Bát Giới lại dễ dàng đòi rút lui, nửa đường bỏ cuộc. Hay nói theo cách khác, vì căn cơ kém cỏi nhất, nên yêu cầu dành cho Bát Giới chỉ dừng lại ở "Ngộ Năng" và "Bát Giới", cũng tức là cần gìn giữ giới luật, tu chính nhân tâm, mới có thể bước vào hàng sa môn. Sa Ngộ Tĩnh - bản tính và sự nhẫn nại của con người Sa Tăng vốn là Quyển Liêm đại tướng trên thiên đình, chỉ vì nhỡ tay làm vỡ chiếc cốc lưu ly mà bị Ngọc Hoàng đày xuống làm yêu quái ở Lưu Sa Hà nơi hạ giới, chuyên làm hại dân lành và đòi ăn thịt trẻ con. Trong Thi thoại Đường Tam Tạng thỉnh kinh được viết trước khi tác phẩm Tây Du Ký ra đời, Sa Tăng từng nói với Tam Tạng pháp sư "Dưới cổ ta là những đầu lâu của người mà ta đã từng ăn thịt". Và đó chính là mạng sống của 9 hoà thượng trước đó - cũng chính là 9 kiếp trước của Đường Tăng. Về sau, nhờ sự giúp sức của Bồ Tát mà chính Đường Tăng lại cảm hoá được Sa Tăng ở kiếp thứ 10. Sau khi trở thành đồ đệ của Đường Tăng, Sa Ngộ Tĩnh đã từ bỏ được rất nhiều ma tính của mình trong quá khứ. Ngộ Tĩnh dắt ngựa, mang hành lý, làm việc rất cực nhọc và không tỏ ra giận dữ khi bị phê bình. Vị đồ đệ này đã theo sư phụ của mình một cách kiên định trong suốt cuộc hành trình tới khi đến đích. Pháp danh của Sa Tăng vì thế là Ngộ Tĩnh Tĩnh để mà khắc chế cái động, cái chưa thanh tịnh; tĩnh để mà kham nhẫn, chịu đựng. Vượt qua bao nhiêu khó khăn, trở ngại tượng trưng bằng 81 kiếp nạn, người quyết chí tu hành mới hoàn thiện chính mình và giác ngộ. còn nữa Chu Quảng Long gặp không ít tình huống bất ngờ bởi thành công của vai diễn Phật tổ trong Tây Du Ký 1986. Điều làm người ta khó hiểu là, sau khi trải qua 80 nạn, bốn thầy trò Đường Tăng đã lấy được chân kinh, nhưng cuối cùng Phật Như Lai lại hạ lệnh cho Kim Cang thiết lập thêm một nạn nữa… Trải qua 81 nạn, cuối cùng Đường Tăng và các đồ đệ cuối cùng lấy được chân kinh, trở về Đại Đường, truyền cho chúng sinh. Ảnh Internet “Tây Du Ký”, câu chuyện 4 thầy trò Đường Tăng đi tây phương thỉnh kinh, tổng cộng đã trải qua 81 nạn. Đây cũng là tư tưởng quy nhất 9 lần 9 của Phật gia. Điều làm người ta khó hiểu là, sau khi trải qua 80 nạn, bốn thầy trò Đường Tăng đã lấy được chân kinh, nhưng cuối cùng Phật Như Lai lại hạ lệnh cho Kim Cang thiết lập thêm một nạn nữa. Mọi người đến đây thường cảm thấy rất nghi hoặc, đã thành chính quả cả rồi, vì sao lại thêm vào một nạn nữa, phải chăng chỉ là lấy cho đủ số thôi không? Là sơ suất của Bồ Tát, là sự an bài của Như Lai, hay là liên quan đến tác giả Ngô Thừa Ân? Phật chẳng lẽ đến con số cũng tính sai hay sao? Thực ra không phải là sự việc đơn giản bề ngoài như vậy. Độ một cá nhân thành Thần thực ra cần thượng sư làm rất nhiều sự việc, cần cải biến rất nhiều nhân duyên, cần cải biến đường đời cho người tu luyện, cần chuẩn bị quả vị cho người tu luyện, thậm chí có thể ảnh hưởng đến kết cấu vũ trụ. Tất cả đều được an bài vô cùng chặt chẽ, nếu trong quá trình tu luyện phát sinh biến hóa thì cần phải cải biến một lần nữa, như vậy rất nhiều điều đã xảy ra trước đây lại phải quay lại an bài lại, thậm chí cần đảo ngược thời gian, điều này là không được phép. Do vậy nhất định phải phù hợp với yêu cầu quả vị được xác định trước, lúc này mới có thể được tính là viên mãn. Chúng ta tạm thời cho rằng nạn cuối cùng là do Phật Như Lai và Bồ Tát cố ý thêm vào, như vậy thì mục đích là gì? Nạn thứ 81 này, bốn thầy trò Đường Tăng bị lão rùa hất xuống sông vì lỡ thất hứa chuyển lời thỉnh cầu của lão rùa tới đức Phật Tổ Như Lai. Chúng ta hãy xem nguyên lai bên trong nạn thứ 81 này là có huyền cơ gì?. Thứ nhất, muốn thông qua nạn này nói với chúng ta rằng, đến cả Như Lai, Bồ Tát cũng là theo pháp lý mà hành, phải hoàn thành đích cuối cùng theo pháp lý mới có thể đạt viên mãn. Thứ hai, là để cảnh tỉnh bốn thầy trò Đường Tăng, dù đã viên mãn rồi cũng không thể làm bậy, nếu không thận trọng mà làm điều gì trái với pháp lý, thì ngay lập tức sẽ bị rớt xuống. Thứ ba, cũng là điểm quan trọng nhất, trên con đường tu luyện, cho đến bước cuối cùng vẫn tồn tại khảo nghiệm. Nếu vào thời khắc này, bốn thầy trò Đường Tăng vẫn còn tâm bất mãn, oán hận, hoặc là có ác niệm nào đó, thì sẽ thất bại trong gang tấc. Cũng may trong lúc ấy, bốn thầy trò họ rất thanh tỉnh. Trong “Tây du ký” ghi chép lại “Chân của Tam Tạng đột nhiên bị rơi xuống, cảm thấy rất kinh hãi. Bát Giới cười ha ha nói Hảo, hảo, hảo! Đúng là càng muốn nhanh thì càng chậm’. Sa Tăng nói Hảo, hảo, hảo! Bởi vì chúng ta đi nhanh quá, nên bảo chúng ta nghỉ ngơi một chút’. Đại Thánh nói ”Ngồi ở bờ sông đợi chín ngày, một ngày lại có thể đi qua chín con sông’ ý nói rằng nhanh hay chậm là tùy vào hoàn cảnh, là điều rất bình thường, Tam Tạng nói ba người các ngươi lại đấu võ mồm rồi, hãy xem xem đây là nơi nào…'”. Chúng ta có thể thấy rằng đến lúc này, bốn thầy trò Đường Tăng đã không còn tâm oán hận, họ vui vẻ đối mặt với khó khăn. Lúc mới bắt đầu sẽ không đạt đến trạng thái như vậy được, ngược lại họ chắc chắn sẽ oán hận việc Bồ Tát và Như Lai đã gây trở ngại. Còn lúc này, dường như họ đã hiểu ra đó là khảo nghiệm. “Tây du ký” là một câu chuyện về tu luyện, có thể nói nạn cuối cùng này được an bài một cách rất tài tình, cũng là biểu hiện chân thực của con đường tu luyện. Vượt qua nạn thứ 81, bốn thầy trò Đường Tăng cuối cùng cũng công thành viên mãn. Lê Hiếu, biên dịch từ NTDTV >>> Vì sao người Do Thái vốn thông minh nhưng phải sống lang bạt suốt năm? Kiếp nạn cuối cùng của thầy trò Đường Tăng tới từ một lời hứa với cụ rùa. Chỉ là hứa hỏi giúp cụ ấy xem cụ còn sống thêm bao nhiêu năm nữa. Một câu hỏi vô hại, cũng như lời hứa tưởng như k có gì là quan trọng, tưởng như có quên cũng được. Chúng ta từ vô lượng kiếp đã bao nhiêu lần hứa, chứ k nói tới kiếp này. Thậm chí kiếp này hứa xong cũng k nhớ mình đã hứa. Hãy thử quan sát các công việc bạn đang làm, các mối quan hệ bạn đang có. Kết quả của mỗi hành vi, lời nói, hành động đang sẽ tạo quả gì trong tương lai. Buôn bán – có tránh khỏi lúc cân thiếu, bán nhầm, thu lãi quá cao, trốn thuế, tránh cơ quan nhà nước… Gặp một người – có đá lông nheo, cười thả thính, hứa nọ hứa chai… Thậm chí việc buôn bán của mình có khiến đối thủ tức tối vì doanh số giảm sút. Việc xuất hiện của mình có khiến ai đó k vui đơn giản “trông cái mặt đã ghét”… Nhiều người vẫn cho rằng tái sinh làm cũng tốt mà, hiện hữu cũng tốt mà, vì cho rằng chỉ cần ta không thấy khổ là được, còn người khác thấy khổ là việc của họ. Mà không hiểu còn hiện hữu là còn khổ chính là việc mình là một nhân góp phần trong quá trình duyên xúc khiến nhân loại, người khác phải khổ. Việc xuất thế gian, độc cư không chỉ là cơ hội độc thoại với chính mình, kiểm điểm chính mình, dành riêng cho mình những phút lắng sâu với tâm tư. Cũng chính là để tránh việc tạo tác, ra những lời hứa ở kiếp này gây nghiệp, tạo ra các duyên xúc không cần thiết. Sau chính là cơ hội để các nghiệp sâu dày có cơ hội ngoi lên bề mặt để trổ. Đừng cho rằng trong một vài thời tọa thiền 1,2 tiếng là sẽ khiến các ẩn nghiệp đó trồi lên. Thậm chí tịnh tĩnh nơi rừng sâu, 1 tuần, 2 tuần còn vẫn thấy bặt bặt nơi nội tâm. Nhưng cứ như vậy, các lớp bụi vô minh dần dần được lau sạch, chúng sẽ lộ rõ. Nhiều vị thực hành nhập thất khi thấy chúng hiển lộ còn dẫn tới sợ hãi, hoang mang, … mà vì vậy cần những người hộ thất, cần những vị thày ở bên để vượt qua các cơn sóng nghiệp từ quá khứ đổ về là như vậy. Do vậy, k phải cứ sống như bây giờ, tới lúc chết cứ niệm khít khao, cứ nghĩ rằng ta k nghĩ gì, ta biết và bước ra khỏi các cảm thọ đang sanh khởi là sẽ chấm dứt được tái sinh trong tiến trình chết. Covid cho cách ly 2 tuần mà sau 1 tuần bạn đã đứng ngồi không yên. Hay một thói quen ở hiện tại, bảo bạn dừng lại, không “luân hồi” chúng nữa mà bạn biết vậy, có ý thức rõ ràng, có đủ lục căn mà còn không thể dừng, huống hồ là khi giai đoạn cận tử ý thức mất, 5 căn đầu đã k thể dùng. Phàm sợ quả, Thánh sợ nhân. Chính là vì các vị đã thấu hiểu Lý duyên khởi. Sự huân tập của ngũ uẩn đi tới tái sinh ở kiếp sau, không phải cứ nói, hay cứ nghĩ dừng mà dừng được. Lực của nghiệp không thể đo đếm bằng các đơn vị vật lý thông thường. Nên thay vì ảo tưởng hãy miên mật thực hành, và đi theo con đường của các vị giác ngộ. Hay thế gian vẫn còn nhiều trò để chơi lắm, chưa chán, vẫn còn thích thú khi thấy nhân loại và người khác khổ vì mình? Trên đường đi thỉnh kinh, cái tâm mà Đường Tăng hiển lộ rõ ràng nhất chính là tâm sợ hãi và tâm lo nghĩ. Càng không trừ bỏ chúng đi, thì càng có nhiều yêu ma muốn ăn thịt ông, quấy nhiễu ông… Một ngày kia, khi Đường Tăng trông thấy có một ngọn núi cao cản đường, lại sợ có yêu quái. Ngộ Không thấy nơi này đã gần Tây Thiên, nên để Đường Tăng yên tâm đã nói rằng ở đây đã gần với đất Phật, tuyệt đối không có yêu quái. Nhưng Đường Tăng vẫn thấy lo lắng, Ngộ Không bèn hỏi xem ông còn nhớ “tâm kinh” không, Đường Tăng nói rằng vẫn chưa quên. Ngộ Không nói rằng vậy thì cứ niệm, không việc gì là không giải được. Pháp lý ở tầng thứ cao thì không có cách nào dùng ngôn ngữ mà nói xuất lai được, nhưng có thể thấy rằng nếu thuộc kinh văn rồi thì có thể thật sự chiểu theo yêu cầu Pháp lý mà làm. Dọc đường có Khấu viên ngoại, thích hành thiện cúng dường chúng tăng, phát nguyện cúng dường cho một vạn tăng nhân. Vừa khéo lại gặp ngay bốn thầy trò đến nơi, vừa tròn một vạn, viên ngoại ân cần khoản đãi. Bởi Bát Giới trước sau không thể tu bỏ đi cái tâm tham ăn, thấy viên ngoại hào sảng phóng khoáng, ăn rồi không muốn đi nữa. Lòng lấy kinh của những người khác đều đặt ở Linh Sơn, chỉ mong được sớm ngày lên đường. Bởi Bát Giới trước sau không thể tu bỏ đi cái tâm tham ăn, thấy viên ngoại hào sảng phóng khoáng, ăn rồi không muốn đi nữa. Lòng lấy kinh của những người khác đều đặt ở Linh Sơn, chỉ mong được sớm ngày lên đường. Ảnh Cuối cùng, Đường Tăng “mắng” Bát Giới lên đường, viên ngoại lấy thanh thế phô trương xa xỉ tiễn biệt thầy trò Đường Tăng. Kết quả, khiến cho lũ cướp trông thấy liền nổi lòng tham, trong đêm đến nhà Khấu viên ngoại cướp bóc, đánh chết viên ngoại, vợ của viên ngoại tức quá hóa giận, vu oan hãm hại bốn thầy trò Đường Tăng là hung thủ. Lần bị oan này, Ngộ Không vốn đã biết trước, đây là kiếp nạn Đường Tăng vốn nên gặp phải. Nhưng có lẽ nhiều người sẽ tỏ ra nghi ngờ thiên lý thiện hữu thiện báo, cho rằng Khấu viên ngoại cả một đời đã cúng dường cho một vạn tăng nhân, cớ sao lại gặp phải chuyện bất trắc như vậy? Thật ra, những việc thiện lành của Khấu viên ngoại đã cải biến vận mệnh của ông, con người chính là nên phải chịu khổ trong mê và luân hồi. Giả sử nếu viên ngoại không có tấm lòng kính Phật, cúng dường chúng tăng, thế thì vận mệnh của ông có lẽ là sau trăm tuổi tiếp tục chuyển sinh trong nghiệp lực luân báo. Nhưng thiện niệm thiện hành của ông khiến cho tai kiếp mà ông vốn gặp phải trong đời đã đến trước, giúp ông sớm có được một nơi đến tốt đẹp làm án trưởng trông coi sổ thiện ác cho Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát. Đồng thời, Đường Tam Tạng có tâm chấp vào đồ vật, quá ư xem nặng chiếc cà sa Cẩm Lan. Ngộ Không mượn cơ hội này, vừa để khiến Đường Tăng buông bỏ cái tâm này, lại vừa để cho quan phủ nhìn thấy vật này, biết thân phận của người lấy kinh không hề tầm thường, chuẩn bị xong xuôi cho việc sửa lại án oan. Cuối cùng, viên ngoại hoàn dương, oan khuất được hóa giải, lại đã chứng thực thiên lý thiện ác hữu báo, thầy trò bốn người cũng đã được lên đường. Oan khuất được hóa giải, lại đã chứng thực thiên lý thiện ác hữu báo, thầy trò bốn người cũng đã được lên đường. Ảnh Kinh sách thiếu trang, được Ngộ Không điểm ngộ Về sau đã đến Tây Thiên, Tiếp Dẫn Phật chèo chiếc thuyền không đáy tiếp độ mọi người. Lần khảo nghiệm này Ngộ Không giúp Đường Tăng trừ bỏ đi chấp trước sinh tử, thoát khỏi nhục thân, thay da đổi thịt. Chấp trước đối với bộ áo cà sa Cẩm Lan tượng trưng cho việc dùng quan niệm và tình cảm của con người đối đãi với đấng Giác Giả. Chấp trước đối với chiếc bình bát Tử Kim, vật báu mà Đường Thái Tông tặng Đường Tăng trước lúc lên đường, sau này A Nan và Ca Diếp đòi cái bát rồi mới cấp chân kinh độc giả vẫn nhầm tưởng đây là chuyện “nhận hối lộ”, đây chính là tượng trưng cho cái tình “trung với vua” trong cõi người thường này. Đương nhiên, người bình thường thì chính là nên có những luân lý quan niệm đạo đức như vậy, nhưng đã làm người tu luyện thì không thể chấp vào nó. Cộng thêm chân kinh khó đắc được, vì để cho người ta biết được sự trân quý của chân kinh, cũng là vì để trừ bỏ chấp trước của Đường Tăng đối với đồ vật, lại để cho ông gặp phải một nạn kinh sách không có chữ, cuối cùng mới đắc được chân kinh. Đáng lý ra đã được viên mãn, Quan Âm Bồ Tát tra lại phát hiện còn thiếu một nạn, thế là lại phải bổ sung vào, để cho bốn thầy trò Đường Tăng gặp nạn rơi xuống nước. Trong lúc phơi khô kinh sách, có vài trang bị rách mất. Trong lúc Đường Tăng đang tiếc nuối, thì Ngộ Không đã điểm ngộ ông rằng “ Ấy là tại Trời Đất bất toàn. Bộ kinh này vốn không đầy đủ, nay dính rách, âu cũng là một điều huyền diệu ứng với sự không trọn vẹn đó thôi. Sức người làm sao giữ được!” . Trong lúc Đường Tăng đang tiếc nuối, thì Ngộ Không đã điểm ngộ ông. Ảnh Nạn cuối cùng này nhìn vào thì thấy như Bồ Tát, Như Lai sắp xếp bù lại thiếu sót lúc đầu. Điều này nói lên rằng, thật ra mọi việc đều nằm trong tầm tay của Đại Giác Giả. Lúc này, tâm tính của bốn thầy trò đều đã đạt đến tiêu chuẩn cao nhất mà họ có thể tu đến được, chỉ là ở thế gian vẫn còn có sự tình chưa hoàn tất Đó chính là mang chân kinh về đến Đông Thổ Đại Đường. Lúc này, chấp trước ăn uống của Trư Bát Giới cũng đã không còn mạnh như xưa, Ngộ Không cũng đã khiêm tốn, thu lại tính khí của mình, hiểu biết lễ nghĩa hơn trước rất nhiều. Tâm tính quyết định đến thành quả tu luyện Sau khi hoàn tất việc đưa chân kinh về Đông Thổ, cũng là lúc bốn thầy trò Đường Tăng quy vị. Dựa theo tâm tính cao thấp của mỗi người mà nhận được quả vị khác nhau. Đường Tăng được phong là Chiên Đàn Công Đức Phật, Ngộ Không là Đấu Chiến Thắng Phật, Sa Tăng là Kim Thân La Hán, Long Mã là Bát Bộ Thiên Long, Bát Giới được phong là Tịnh Đàn Sứ Giả. Ngộ Không trong suốt toàn bộ quá trình tu luyện, ngộ tính đều rất cao, còn Huyền Trang rõ ràng thua kém hơn rất nhiều, nhưng vì sao cuối cùng cả hai đều đắc được quả vị như nhau? Kỳ thực là bởi tu luyện của Ngộ Không gần như không tồn tại vấn đề của mê, chuyện gì liếc qua đều hiểu được ngay. Còn Huyền Trang thì căn cơ rất tốt, bản thân rất có lai lịch, nhưng ông mê mờ rất sâu, thực tế cũng là rất khổ. Cái gì cũng đều nhìn không thấy, nghe không thấy, cũng đều không biết, chỉ có thể nhất mực tu bản thân mình. Loại tâm tính biểu hiện ra trong cõi mê lạc này đã không còn thấp nữa rồi, phải chịu rất nhiều khổ, vậy nên sau khi viên mãn, quả vị lại đắc được rất cao. Sau khi hoàn tất việc đưa chân kinh về Đông Thổ, cũng là lúc bốn thầy trò Đường Tăng quy vị. Dựa theo tâm tính cao thấp của mỗi người mà nhận được quả vị khác nhau. Ảnh Sa Tăng thì căn cơ ngộ tính có hạn, nhưng lại kiên định tu luyện, không oán trách cũng không hối hận, tâm tính tu trì không hời hợt chút nào, cuối cùng đã đắc được La Hán Chính Quả. Bạch Long Mã trên suốt chặng đường tuy là vất vả, nhưng lại gần như không có tu luyện trên phương diện tâm tính, chính là giống như người tu luyện trong núi sâu rừng già dựa vào chịu khổ mà tăng công vậy, tu luyện chậm, mà tu cũng không được cao, cuối cùng không thoát khỏi Tam giới. Còn Bát Giới thì có cơ hội tu luyện tâm tính, nhưng bởi bản tính quá u mê muội, tâm sắc, tâm đố kỵ trước sau vẫn không trừ bỏ được, không đắc được Chính Quả cũng là điều dễ hiểu. Đến đây, tu luyện của mỗi người đã kết thúc. Trên suốt chặng đường đã hóa giải rất nhiều những ân oán sâu xa, diệt trừ vô số yêu ma quỷ quái hại người, trừng trị rất nhiều những tên hôn quân vô đạo, tỏ rõ nhân duyên thiên lý thiện ác hữu báo. Từ đó hồng dương Phật Pháp, đưa Phật giáo Đại Thừa truyền rộng ở mảnh đất Thần Châu, cũng đưa văn hóa tu luyện bác đại tinh thâm gieo trồng vào nơi sâu thẳm trong tâm hồn của hậu thế, đặt nền tảng cho văn hóa tín Phật kính Trời sau này. *Bản thân tác giả là người yêu thích “Tây Du Ký”, tuy đã dùng lý giải của bản thân giải thích một cách đơn giản với nội hàm câu chuyện tu luyện trong danh tác, nhưng rốt cuộc vẫn có tính giới hạn. “Tây Du Ký” ắt còn có nhiều nội hàm sâu rộng hơn nữa… Theo Kim Cung / Phi Long biên dịch

kiếp nạn cuối cùng của thầy trò đường tăng